Chuyển tiền vào tài khoản cá nhân: 5 hiểu sai dẫn đến rủi do truy thu thuế
I. Nghĩa vụ thuế của hộ kinh doanh.
Căn cứ khoản 1 Điều 2 Thông tư 40/2021/TT-BTC – Hướng dẫn thuế đối với hộ và cá nhân kinh doanh “Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh là cá nhân cư trú có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc tất cả các lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật”. Vì vậy, khi một người đã thực hiện việc kinh doanh trên thực tế thì nghĩa vụ nộp thuế sẽ xảy ra.
Căn cứ Điều 4 Thông tư 40/2021/TT-BTC – Hướng dẫn thuế đối với hộ và cá nhân kinh doanh “2. Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có doanh thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh trong năm dương lịch từ 100 triệu đồng trở xuống thì thuộc trường hợp không phải nộp thuế GTGT và không phải nộp thuế TNCN theo quy định pháp luật về thuế GTGT và thuế TNCN. Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có trách nhiệm khai thuế chính xác, trung thực, đầy đủ và nộp hồ sơ thuế đúng hạn; chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đầy đủ của hồ sơ thuế theo quy định.
Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh theo hình thức nhóm cá nhân, hộ gia đình thì mức doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống để xác định cá nhân không phải nộp thuế GTGT, không phải nộp thuế TNCN được xác định cho một (01) người đại diện duy nhất của nhóm cá nhân, hộ gia đình trong năm tính thuế.”
Nếu doanh thu vượt quá 100 triệu đồng/năm, cá nhân phải thực hiện nghĩa vụ thuế, không phân biệt đã đăng ký kinh doanh hay chưa.
Thực tế cho thấy, nhiều cá nhân vẫn tiến hành hoạt động kinh doanh mà không thực hiện thủ tục đăng ký kinh doanh theo quy định. Họ thường có suy nghĩ đơn giản rằng quy mô nhỏ, làm ăn không chính thức thì sẽ không bị cơ quan chức năng phát hiện hay quản lý.
Tuy nhiên, nhận thức sai lầm này tiềm ẩn hai rủi ro pháp lý nghiêm trọng:
(1) Có thể bị xử lý vì vi phạm quy định về đăng ký kinh doanh, và
(2) Có nguy cơ bị coi là trốn thuế do không kê khai và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế phát sinh từ hoạt động kinh doanh.
II. Khi nào sẽ phát sinh nghĩa vụ thuế?
Căn cứ Điều 4 Thông tư 40/2021/TT-BTC – Hướng dẫn thuế đối với hộ và cá nhân kinh doanh “Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có trách nhiệm khai thuế chính xác, trung thực, đầy đủ và nộp hồ sơ thuế đúng hạn; chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đầy đủ của hồ sơ thuế theo quy định”
Đây là một hiểu nhầm cực kỳ nguy hiểm bởi nghĩa vụ thuế luôn xảy ra trên tổng doanh thu, Khi hành vi này xảy ra thì cơ quan thuế sẽ truy thu và rất dễ bị truy tố bởi đây là cố tình trốn thuế chứ không phải vô tình
Hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn, không thu theo điều 142 Luật Quản lý thuế 2019 quy định
Cơ quan quản lý thuế ấn định số tiền thuế phải nộp hoặc ấn định từng yếu tố, căn cứ tính thuế để xác định số tiền thuế phải nộp theo điều 49 Luật Quản lý thuế 2019 quy định
III. Có được chia doanh thu ra nhiều tài khoản nhận tiền để làm giảm nghĩa vụ thuế.
Đây cũng là một sai lầm đối với người nộp thuế bởi tổng doanh thu sẽ được tính trên tổng tất cả các tài khoản của cá nhân đó.
Hiện phương thức định danh điện tử đã được áp dụng, dữ liệu của cơ quan thuế đang cập nhật, từ 1/7 quy định sử dụng mã số định danh cá nhân thay cho mã số thuế cũng được áp dụng cho cả cá nhân, hộ kinh doanh và doanh nghiệp. “Các thông tin của người nộp thuế đã định danh trên VneID, liên kết trên tài khoản ngân hàng và ứng dụng eTax Mobile. Dữ liệu này có thể bí mật đối với cá nhân nhưng với các cơ quan chức năng hoàn toàn có đầy đủ thông tin, chứng cứ để xem xét nghĩa vụ thuế của người nộp thuế”
IV. Hiểu nhầm về ghi nội dung nhận tiền.
Đây cũng là một hiểu nhầm bởi tổng doanh thu vẫn có, bất kể nội dung chuyển khoản ghi là gì đi chăng nữa. Và người nộp thuế cũng không nên thắc mắc tại sao cơ quan thuế biết được đó là tiền bán hàng.
Căn cứ Điều 27 Luật Quản lý thuế 2019 “Ngân hàng thương mại khi tham gia phối hợp thu thuế và thu các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước có trách nhiệm... phối hợp với cơ quan quản lý thuế, Kho bạc Nhà nước trong việc thực hiện nộp thuế điện tử, hoàn thuế điện tử cho người nộp thuế; xử lý, đối soát dữ liệu về nộp thuế điện tử, hoàn thuế điện tử”
Dù nội dung chuyển khoản có được ghi với mục đích khác, nhưng nếu dòng tiền thực chất phát sinh từ hoạt động kinh doanh – như bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ – thì vẫn bị xem là doanh thu chịu thuế theo quy định pháp luật
V. Bản chất doanh thu kê khai
Căn cứ khoản 1 Điều 10 Thông tư 40/2021/TT-BTC “Doanh thu tính thuế GTGT và doanh thu tính thuế TNCN đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh là doanh thu bao gồm thuế (trường hợp thuộc diện chịu thuế) của toàn bộ tiền bán hàng, tiền gia công, tiền hoa hồng, tiền cung ứng dịch vụ phát sinh trong kỳ tính thuế từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, bao gồm cả các khoản thưởng, hỗ trợ đạt doanh số, khuyến mại, chiết khấu thương mại, chiết khấu thanh toán, chi hỗ trợ bằng tiền hoặc không bằng tiền; các khoản trợ giá, phụ thu, phụ trội, phí thu thêm được hưởng theo quy định; các khoản bồi thường vi phạm hợp đồng, bồi thường khác (chỉ tính vào doanh thu tính thuế TNCN); doanh thu khác mà hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh được hưởng không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền.”
Việc xác định doanh thu tính thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh không phụ thuộc vào việc đã thu được tiền hay chưa, mà dựa trên doanh thu phát sinh từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong kỳ tính thuế. Do đó, ngay cả khi chưa nhận được tiền từ khách hàng, nhưng đã phát sinh hoạt động bán hàng, cung ứng dịch vụ, thì vẫn phải kê khai doanh thu và nộp thuế theo quy định.
VI. Kết luận
Người nộp thuế có nghĩa vụ chủ động tìm hiểu, thực hiện đúng quy định pháp luật thuế và chịu trách nhiệm với thông tin đã khai báo.
Trong trường hợp cá nhân hoặc hộ kinh doanh trung thực kê khai bổ sung khi phát hiện thiếu sót, cơ quan thuế sẽ xử lý theo hướng truy thu số thuế còn thiếu và tính tiền chậm nộp.
Tuy nhiên, nếu phát hiện hành vi có dấu hiệu cố ý trốn tránh nghĩa vụ thuế, chẳng hạn như: không đăng ký kinh doanh, nhận thanh toán bằng tiền mặt nhằm né thuế, chia nhỏ dòng tiền vào nhiều tài khoản khác nhau, cố tình làm sai lệch nội dung giao dịch… thì đây không còn là sai sót hành chính mà đã chuyển sang hành vi vi phạm nghiêm trọng.
Khi đã có dấu hiệu gian lận có chủ đích, người vi phạm có thể phải chịu các chế tài nghiêm khắc hơn như: bị xử phạt hành chính ở mức cao, bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị cấm xuất nhập cảnh, hoặc bị đình chỉ hoạt động có thời hạn.
Vì vậy, các cá nhân, hộ kinh doanh nên nhìn nhận trách nhiệm thuế như một phần của chiến lược phát triển bền vững, chủ động tuân thủ pháp luật, tránh để vi phạm nhỏ tích tụ thành rủi ro pháp lý nghiêm trọng về sau.