Góc nhìn kinh tế Thế Giới và Việt Nam 2024

Phần Mềm Phân Tích Tài Chính

Góc nhìn kinh tế Thế Giới và Việt Nam 2024

Ngày đăng: 05/04/2024 04:43 PM
TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đánh giá kinh tế Việt Nam trong quý 1 có nhiều điểm sáng nhưng vẫn còn một số thách thức, khó khăn, tăng trưởng GDP quý 2 sẽ tiếp tục khả quan, có thể đạt 5,9-6,3%, giúp GDP nửa đầu năm 2024 tăng 5,8-6,2% và cả năm 2024 có thể tăng 6-6,5% (kịch bản cơ sở). Nhóm chuyên gia đồng thời đưa ra một số khuyến nghị để giúp nền kinh tế đạt được mục tiêu tăng trưởng.

LTS: TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa công bố báo cáo đánh giá về Kinh tế Việt Nam quý 1 và dự báo cả năm 2024. 

Bối cảnh kinh tế thế giới quý 1/2024

Trong quý 1/2024, kinh tế thế giới (KTTG) phục hồi chậm, không đồng đều nhưng đan xen một số tín hiệu tích cực: (i) các hoạt động sản xuất, dịch vụ đã dần phục hồi đồng đều hơn khi chỉ số PMI tổng hợp toàn cầu trong 2 tháng đầu năm nay lần lượt đạt 51,8 và 52,1 điểm (tăng 5 tháng liên tiếp); (ii) tại Mỹ, Trung Quốc và một số nền kinh tế lớn khác, xu hướng tích cực của các hoạt động kinh tế từ cuối năm 2023 được duy trì; (iii) giá cả hàng hóa, lương thực, năng lượng được duy trì ổn định góp phần giúp lạm phát hạ nhiệt và tiến dần về mức mục tiêu; (iv) tỷ lệ thất nghiệp của nhiều nước ở mức toàn dụng lao động. Tín hiệu tích cực trên là cơ sở để NHTW các nước điều chỉnh chính sách tiền tệ theo hướng nới lỏng, giảm lãi suất hỗ trợ phục hồi kinh tế thời gian tới.

Tuy nhiên, đà hồi phục của KTTG gặp nhiều khó khăn, thách thức bởi xung đột địa chính trị dai dằng (tại Ukraina, khu vực dải Gaza, Biển Đỏ…); cạnh tranh thương mại - công nghệ có dấu hiệu gia tăng trở lại, bảo hộ thương mại tăng, sự phân mảnh của kinh tế toàn cầu; lạm phát giảm nhưng cả lạm phát và lãi suất còn ở mức cao; biến đổi khí hậu khó lường hơn…v.v.

Về triển vọng cả năm 2024, các tổ chức quốc tế (WB, IMF, OECD, UNCTAD…) đánh giá kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, rủi ro khi các nền kinh tế lớn phục hồi chậm, thậm chí một số nền kinh tế có thể giảm tốc độ tăng trưởng (như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản…); niềm tin của người tiêu dùng, nhà đầu tư ở mức thấp; xung đột vũ trang kéo dài, nguy cơ khủng bố gia tăng. Các báo cáo cập nhật dự báo: (i) KTTG tăng trưởng 2,4-3,1%, thấp hơn khoảng 0,2-0,3 điểm % so với năm 2023; (ii) lạm phát (CPI) hạ nhiệt đáng kể, xuống mức khoảng 3,5-4% (từ mức 5,7% năm 2023) và nhiều nước sẽ nới lỏng tiền tệ trong năm nay; (iii) hoạt động thương mại quốc tế và đầu tư FDI toàn cầu dự báo phục hồi (tăng lần lượt 2,3% và 2,4-3% so với năm 2023).

 

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Bức tranh kinh tế Việt Nam quý 1/2024

Trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, phục hồi chậm, dự báo tăng trưởng thấp hơn năm 2023, kinh tế Việt Nam trong quý 1/2024 vẫn đạt được nhiều kết quả tích cực, ghi nhận 8 điểm sáng sau:

Một là, Quốc Hội, Chính phủ đẩy nhanh hoàn thiện thể chế; quyết liệt giải quyết những vướng mắc, điểm nghẽn, thúc đẩy tăng trưởng. Trong quý 1, Quốc Hội họp bất thường thông qua Luật đất đai 2024 và Luật các TCTD 2024 cùng một số đạo luật, nghị quyết quan trọng khác. Chính phủ đã sớm ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 5/1/2024 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển KTXH, dự toán NSNN 2024 và Nghị quyết 02 ngày 05/01/2024 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, với ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và đảm bảo các cân đối lớn.

Về hoàn thiện thể chế, Chính phủ chỉ đạo xây dựng và ban hành các Nghị định, Thông tư và văn bản hướng dẫn thi hành các Luật và Nghị quyết quan trọng đã được Quốc hội thông qua như Luật Đất đai 2024, Luật nhà ở 2023, Luật Kinh doanh BĐS 2023, Luật các TCTD 2024.../. Đồng thời, Quốc hội dự kiến xem xét, thông qua 8 dự án Luật tại kỳ họp lần thứ 7 (vào tháng 5/2024), trong đó có một số quan trọng như Luật BHXH, Luật Thủ đô, Luật Đường bộ, Luật Tổ chức tòa án nhân dân…v.v.

Về chính sách tiền tệ, Thủ tướng Chính phủ đã ký Công điện số 18/CĐ-TTg ngày 5/3/2024 về điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2024 và chủ trì Hội nghị triển khai nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ năm 2024 (ngày 14/3) nhằm định hướng triển khai các giải pháp tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, đúng, trúng mục tiêu; hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế; kiểm soát tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tăng khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp, tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cho vay…v.v. NHNN cũng đã sớm cấp hạn mức tăng trưởng tín dụng 15% cả năm 2024, đẩy mạnh phát hành tín phiếu nhằm can thiệp thị trường liên ngân hàng, bình ổn tỷ giá…v.v.

Đối với đầu tư công và thị trường bất động sản (BĐS), Chính phủ có nhiều chỉ đạo quyết liệt đẩy nhanh tiến độ giao vốn và giải ngân vốn đầu tư công ngay từ đầu năm 2024, cùng với các chính sách, giải pháp phục hồi và phát triển thị trường BĐS, nhà ở xã hội hiệu quả và lành mạnh hơn. Đối với thị trường chứng khoán (TTCK), Thủ tướng đã chủ trì Hội nghị triển khai nhiệm vụ phát triển TTCK năm 2024, trong đó nhấn mạnh quyết tâm nâng hạng TTCK Việt Nam từ cận biên lên mới nổi trong năm 2025. Với thị trường vàng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 06/CT-TTg ngày 15/2/2024 và Công điện số 23/CĐ-TTg ngày 20/3/2024 yêu cầu NHNN phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai giải pháp nhằm ổn định và phát triển thị trường vàng lành mạnh; rà soát, hoàn thiện quy định quản lý thị trường vàng (sửa Nghị định 24/2012).

Hoạt động đối ngoại, ngoại giao kinh tế tiếp tục được quan tâm đẩy mạnh. Tiếp theo nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với với Hoa Kỳ và Nhật Bản trong năm 2023, ngày 7/3/2024, Việt Nam và Úc đã nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược toàn diện, Úc là quốc gia thứ 7 có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam, tiếp tục nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam; tạo cơ hội thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư và du lịch thời gian tới.

Hai là, GDP quý 1 tăng trưởng cao nhất trong vòng 5 năm, đạt 5,66%, cao hơn mức đưa ra trong Nghị quyết 01. Các động lực tăng trưởng truyền thống như xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng đều tăng tích cực, trong đó xuất khẩu tăng 17%, cán cân thương mại thặng dư hơn 8 tỷ USD, đầu tư tăng 4,7%, tiêu dùng cuối cùng tăng 4,93%...v.v. Về phía cung, khu vực nông - lâm – ngư nghiệp tăng gần 3% (tiếp tục là bệ đỡ của nền kinh tế); khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,28% (trong đó công nghiệp chế biến – chế tạo tăng gần 7%); dịch vụ tăng 6,12%...v.v. Các mức này đã tương đương 90% trước dịch và là kết quả tích cực, đáng ghi nhận, trong bối cảnh kinh tế thế giới giảm đà tăng trưởng.

Ba là, xem xét cụ thể một số động lực tăng trưởng truyền thống cho thấy đà phục hồi khá đồng đều. Tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu (XNK) quý I/2024 đạt 178 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước; trong đó xuất khẩu đạt 93,06 tỷ USD, tăng 17%, nhập khẩu đạt 84,98 tỷ USD, tăng 13,9% nhờ lực cầu phục hồi, nhất là tại các đối tác lớn của Việt Nam (như Mỹ, EU, ASEAN, Hàn Quốc…). Theo đó, cán cân thương mại tiếp tục thặng dư 8,08 tỷ USD, gấp 1,65 lần cùng kỳ năm 2023, góp phần ổn định tỷ giá, tăng dự trữ ngoại hối.

Thu hút và giải ngân vốn FDI tiếp tục tăng trưởng tích cực. Thu hút vốn FDI tăng trưởng tích cực trong bối cảnh Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ với nhiều đối tác lớn và xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng vẫn diễn ra. Lũy kế đến ngày 20/03/2024, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam ước đạt 6,17 tỷ USD, tăng 13,4% so với cùng kỳ. Giải ngân vốn FDI cũng đạt kết quả khả quan trong bối cảnh dòng vốn FDI quốc tế phục hồi chậm; đạt 4,63 tỷ USD, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước, là mức giải ngân cao nhất cùng kỳ giai đoạn 2017-2024; khẳng định niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài vào triển vọng kinh tế Việt Nam cùng với xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng vẫn diễn ra.

Tiêu dùng tiếp tục đà phục hồi, du lịch tăng mạnh. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng quý 1/2024 tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, doanh thu dịch vụ lữ hành ghi nhận mức tăng trưởng cao nhất trong 4 cấu phần bán lẻ và cao nhất trong vòng 5 năm (+46,3%), khi lượng khách quốc tế tăng mạnh (tăng 3,1% so với cùng kỳ năm 2019 – năm trước dịch) nhờ chính sách miễn thị thực và các chính sách kích cầu du lịch.

Giải ngân vốn đầu tư công được thúc đẩy và cải thiện rõ rệt. Tổng số vốn giải ngân trong quý I/2024 đạt 97,75 nghìn tỷ đồng, bằng 13,9% kế hoạch năm và tăng 3,74% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, mức tăng còn thấp và nhiều bộ, ngành, địa Phương chưa phân bổ hết vốn đầu tư hoặc có tỷ lệ giải ngân rất thấp. Trong bối cảnh đó, Thủ tướng Chính phủ ban hành Công điện số 24/CĐ-TTg ngày 22/3/2024 về đẩy nhanh tiến độ phân bổ và giải ngân vốn đầu tư công năm 2024.

Sản xuất công nghiệp (SXCN) tiếp tục phục hồi. Chỉ số SXCN (IIP) trong Q1/2024 tăng 5,67% (so với mức giảm -2,25% của cùng kỳ năm 2023) cho thấy sản xuất công nghiệp (nhất là phục vụ xuất khẩu) đang phục hồi tích cực. Tuy nhiên, chỉ số PMI tháng 3/2024 giảm nhẹ xuống 49,9 điểm sau 2 tháng ở mức mở rộng (PMI tháng 1 và 2 lần lượt đạt 50,3 điểm và 50,4 điểm) cho thấy đà phục hồi của SXCN chưa bền vững khi cầu tiêu dùng thế giới phục hồi chậm cải thiện, chi phí đầu vào tăng…v.v.

Bốn là, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát (dù giá xăng dầu, chi phí vận tải tăng do xung đột Biển Đỏ leo thang…). CPI bình quân QI/2024 tăng 3,77% và lạm phát cơ bản bình quân QI/2024 tăng 2,81% so với cùng kỳ, thấp hơn so với mức 2,84% của 2 tháng đầu năm nhờ đà giảm giá của nhiều nguyên vật liệu đầu vào và cung tiền tăng chậm (tín dụng chỉ tăng 0,26% trong quý 1/2024).

Năm là, mặt bằng lãi suất tiếp tục giảm, góp phần hỗ trợ người dân, DN và tăng trưởng kinh tếtín dụng đang tăng trở lại (riêng tháng 3, tín dụng tăng gần 1%, từ mức âm -0,72% cuối tháng 2 lên mức tăng khoảng 0,3% đến nay); thị trường chứng khoán tăng trưởng tích cực, ngày càng phản ánh sát hơn tình hình nền kinh tế và sức khỏe của DN; thị trường trái phiếu DN, bất động sản đang có dấu hiệu phục hồi.

Sáu là, thu NSNN tăng khá cùng với đà phục hồi của sản xuất, tiêu dùng. Thu NSNN trong quý 1 đạt gần 540 nghìn tỷ đồng, bằng 31,7% dự toán năm, tăng 9,8%chi NSNN tăng 8,3% so với cùng kỳ, NSNN thặng dư 146 nghìn tỷ đồng, tiếp tục tạo dư địa chính sách tài khóa hỗ trợ người dân, DN. Rủi ro tài khóa ở mức trung bình với mức nợ công tương đương 38% GDP, nợ nước ngoài 34% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ khoảng 23-24% thu NSNN (theo Bộ Tài chính) đều dưới ngưỡng Quốc Hội cho phép; an ninh lương thực và an ninh năng lượng được duy trì, góp phần bảo đảm an sinh xã hội và ổn định vĩ mô.

Bảy là, công tác quy hoạch, đầu tư kết cấu hạ tầng hiện đại tiếp tục được quan tâm thúc đẩy. Nhiều địa phương đã công bố Quy hoạch phát triển KTXH đến năm 2030, tầm nhìn 2050; Kế hoạch triển khai Quy hoạch điện VIII cũng đã được ban hành, tạo điều kiện bắt tay triển khai thực hiện thời gian tới.

Tám là, hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Đặc biệt, đầu tháng 3 vừa qua, Việt Nam và Úc đã nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược toàn diện, Úc là quốc gia thứ 7 có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam, góp phần nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam; tạo cơ hội thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, du lịch, KHCN và nhiều lĩnh vực khác trong thời gian tới.